NHÂN QUYỀN VIỆT NAM SAU 76 NĂM “TUYÊN NGÔN QUỐC TẾ NHÂN QUYỀN”  Share

Bịt tai, bịt mắt, bịt miệng người dân: đó là nhân quyền của việt cộng

Đặng Đình Mạnh - 76 năm trước, ngày 10 Tháng Mười Hai 1948, Liên Hiệp Quốc thông qua bản “Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền” và chọn ngày này hàng năm làm Ngày Quốc tế Nhân quyền.

Nhân đó, cho đến nay, đã có 193 quốc gia là thành viên Liên Hiệp Quốc tham gia ký kết bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Theo Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, nhân quyền được cho là quyền tự nhiên của con người, như: Quyền tự do ngôn luận, báo chí, lập hội, biểu tình, tự do tôn giáo…

Tuy nhân quyền không chỉ là một quyền tự nhiên, mà còn là một quyền phổ quát trên thế giới. Thế nhưng, không phải người nào sống trên thế giới cũng đều được tôn trọng nhân quyền, chưa nói đến tình trạng vi phạm nhân quyền còn xảy ra nhan nhản khắp nơi.

Điều dễ nhận thấy là tình hình nhân quyền hầu như tùy thuộc hoàn toàn vào thể chế chính trị của quốc gia đó. Nếu là một thể chế chính trị dân chủ, thì nhân quyền được bảo đảm. Trái lại, nếu là một thể chế độc tài, thì nhân quyền không được bảo đảm, tình trạng vi phạm nhân quyền sẽ xảy ra ít nhiều tùy theo mức độ độc tài của chế độ.

Đầu tiên phải kể đến các quốc gia duy trì chế chế độc tài theo chủ thuyết cộng sản, bao gồm Tàu cộng, Bắc Hàn, Cuba, Lào và Việt cộng. Sau đó phải kể đến các quốc gia độc tài quân phiệt như Myanmar, công an trị như Syria, hoặc quân phiệt cát cứ, loạn lạc không bầu cử được chính quyền dân chủ như Somalia, Libya, Sudan.

Với Syria, sự thay đổi chính trị mới đây đã khiến nước này trở thành ẩn số về khả năng có chuyển đổi dân chủ, tôn trọng nhân quyền trong tương lai hay không? Cho thấy, đánh giá một cách tổng quan, tình hình nhân quyền thế giới vẫn còn là nan đề vì còn khá nhiều quốc gia độc tài, chiếm số dân khổng lồ đang cố duy trì quyền lực của mình.

Tình hình nhân quyền Việt Nam cộng

Xét trên căn bản các quyền tự do, gồm tự do ngôn luận, báo chí, lập hội, biểu tình, tự do tôn giáo… Cho thấy, ít nhất từ sau Tháng Tư 1975 cho đến nay, tất cả các quyền này đều bị chế độ Việt cộng độc tài trong nước tước đoạt, vi phạm nhân quyền một cách trầm trọng.

Cho dù, về phương diện pháp lý, chế độ vẫn đưa nhân quyền vào quy định công khai, chính thức trong Hiến pháp và tiếp tục cho duy trì các quy định về nhân quyền trong những lần tu chính hiến pháp. Nhưng thực tế, chúng chỉ là những quy định trên văn bản mà không hề được thực thi, tôn trọng.

Về quyền tự do ngôn luận

Hiện nay, theo thống kê chưa đầy đủ, có đến hàng vài trăm tù nhân chính trị đang phải thụ án trong lao tù chế độ, vì bị cáo buộc các tội danh liên quan đến phát ngôn trên không gian mạng xã hội.

 

Bài viết của tác giả Mạnh Đăng bị Facebook chặn theo đòi hỏi của Việt cộng. (Hình: tác giả chụp lại từ FB)

Trong một buổi hội luận về tình hình nhân quyền của Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA) vào ngày 10 Tháng Mười Hai 2024, có 5 diễn giả tham dự, trong đó, có đến 4 diễn giả là những nạn nhân trực tiếp bị vi phạm nhân quyền về quyền tự do ngôn luận đến mức phải rời Việt Nam cộng vì sự đàn áp của chế độ độc tài trong nước.

Hàng tuần, truyền thông trong nước vẫn tiếp tục đưa tin về các vụ bắt giữ, phạt vạ người dân vì những phát ngôn của họ bị cho là làm ảnh hưởng đến uy tín chế độ.

Quyền tự do báo chí

Mặc cho Hiến pháp hiện tại quy định về quyền tự do báo chí như thế nào đi nữa, thì những người thực hiện quyền này vẫn tiếp tục bị bắt giữ, thụ án. Trường hợp nhóm nhà báo độc lập gồm các ông Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy và Lê Hữu Minh Tuấn, hoặc nhà báo tự do Phạm Đoan Trang… là những trường hợp khá điển hình. Người chịu hình phạt nhẹ nhất cũng xấp xỉ hàng chục năm tù giam, người chịu hình phạt nặng lên đến 15 năm tù giam, chỉ vì thực hiện các quyền do Hiến pháp quy định.

Tất cả họ đều đang là những tù nhân chính trị được nhiều tổ chức bảo vệ nhân quyền hàng đầu quốc tế và Liên Hiệp Quốc liên tục lên tiếng yêu cầu chế độ Việt cộng tôn trọng Hiến pháp, trả tự do cho họ.

Quyền tự do lập hội

Trong năm 2024, chế độ Cộng Sản ban hành Nghị định về Hội với ý nghĩa pháp lý là tạo điều kiện cho người dân thực hiện quyền tự do lập hội do Hiến pháp quy định.

Nhưng thực tế, Nghị định quy định hàng loạt rào cản pháp lý, khiến cho việc thành lập hội không thể nào thực hiện được. Cho thấy, đây là Nghị định cấm thành lập hội chứ không phải cho phép. Và thực chất, nó chỉ là một văn bản có tính cách đối phó với với các cơ quan bảo vệ nhân quyền quốc tế mà thôi.

Quyền tự do tôn giáo

Tự do tôn giáo tại Việt Nam cộng liên tục bị đàn áp, không chỉ từ năm 1975 mà ở miền Bắc từ sau năm 1954, khi chế độ Việt cộng tiếp thu, quản lý phần lãnh thổ trên vĩ tuyến 17.

Theo đó, hàng loạt các tổ chức tôn giáo độc lập đều bị giải tán như Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất… Thay thế vào đó, chế độ cho thành lập các tổ chức tôn giáo thuộc chế độ quản lý, như Giáo Hội Phật Giáo Việt cộng, hoặc Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo… với mục tiêu đàn áp các tổ chức tôn giáo độc lập, mặt khác, để ngụy trang, đối phó với thế giới bên ngoài.

Mới đây, khi chế độ đề xướng việc tinh giản bộ máy chính quyền, trong đó, liệt kê 30 tổ chức hội đoàn cần giải thể hoặc sáp nhập. Trong đó, công chúng không thấy những cái tên như Giáo Hội Phật Giáo Việt cộng, hoặc Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo… Các tổ chức này tiếp tục được giữ lại. Chứng tỏ, chế độ trong nước vẫn tiếp tục giữ chủ trương đàn áp các tổ chức tôn giáo độc lập.

Không chỉ với tự do tôn giáo của người Kinh, mà việc đàn áp xảy ra đều khắp, một cách có hệ thống trên toàn lãnh thổ và đặc biệt khốc liệt tại những vùng tập trung người dân tộc thiểu số.

Chế độ Việt cộng tự tiện gán đặt cho các tổ chức tôn giáo độc lập của người dân tộc thiểu số thành các tổ chức hoạt động chính trị chống chế độ hoặc khủng bố, như : Dương Văn Mình, Tin Lành Montagnards, Tin Lành Đề Ga, Hội Thánh Tin Lành Đấng Christ. Họ bắt người dân phải cải đạo, bỏ đạo hoặc chỉ được phép hoạt động tôn giáo trong các tổ chức tôn giáo do chế độ mạo danh thành lập.

 

Ban quản trị FB thông báo cho tác giả Mạnh Đăng biết họ chặn bài viết của ông theo lệnh của Việt cộng. (Hình: tác giả chụp lại từ FB)

Sự đàn áp nhân quyền người dân tộc thiểu số không chỉ trong phạm vi tôn giáo, mà còn thể hiện trong việc khước từ bảo hộ quyền tài sản về đất đai, ruộng vườn… là những tài sản hợp pháp do ông cha họ khai thác, sử dụng từ bao đời trên vùng Tây Nguyên. Theo đó, chế độ tùy tiện chiếm đất đai của họ để xây dựng các công trình, kinh doanh… nhưng không bồi thường, hoặc chỉ bồi thường tượng trưng. Đẩy họ lâm vào tình trạng khó khăn, bần cùng hóa vì mất nguồn sinh sống.

Nhìn khách quan, vụ bạo động xảy ra vào Tháng Sáu 2023 của đồng bào dân tộc thiểu số tại tỉnh Đắk Lắk, chính là hậu quả của sự uất ức bị dồn nén từ nhiều thập kỷ của họ, khi nhân quyền bị chà đạp, các quyền tự do tôn giáo và tài sản hợp pháp bị xâm phạm bất công.

Việc vi phạm nhân quyền không chỉ diễn ra trong nước, mà chế độ còn vươn tay đàn áp xuyên biên giới trong các vụ bắt cóc trắng trợn với những người bất đồng chính kiến đang tỵ nạn tại nước ngoài. Hoặc buộc các công ty sở hữu mạng xã hội xóa bài viết, không cho hiển thị tại Việt Nam cộng.

Tác giả bài viết này, trong một khoảng thời gian ngắn, có đến 6 bài viết đăng tải trên trang Facebook đã bị ngăn cản không cho hiển thị tại Việt Nam cộng theo yêu cầu của Bộ Công An và Bộ Thông Tin và Truyền Thông Việt cộng.

Quyền tự do biểu tình

Như đã trình bày trên, quyền tự do biểu tình được quy định trong Hiến pháp. Sau khi Hiến pháp tu chính năm 2013, bộ công an được giao thẩm quyền soạn thảo dự án Luật Biểu Tình để trình Quốc Hội. Đến nay đã là suốt 11 năm ròng, bộ công an vẫn “bình chân như vại” giữ im lặng về dự án Luật Biểu Tình.

Song song đó, họ vẫn mạnh tay đàn áp các cuộc biểu tình của người dân trong nước với lý do biểu tình là bất hợp pháp vì chưa có Luật Biểu Tình được ban hành. Mặc cho lý do này vi hiến vì quyền tự do biểu tình có hiệu lực từ khi Hiến pháp quy định chứ không phải từ khi có Luật Biểu Tình.

 

Dân khắp nơi đã biểu tình chống “Luật đặc khu kinh tế” và “Luật an ninh mạng” hồi năm 2018 ở Sài Gòn, Hà Nội và nhiều tỉnh thị khác. Hàng trăm người đã bị bắt và bỏ tù vì bị cho là biểu tình “bất hợp pháp”. (Hình: Kao Nguyen/AFP/Getty Images)

Cuộc tổng biểu tình vào ngày 10 Tháng Sáu năm 2018 của người dân trong nhiều tỉnh thành để phản đối các dự luật bán nước và phản động như Luật Đặc Khu, Luật An Ninh Mạng đã bị chế độ đàn áp khốc liệt. Hàng trăm người đã bị bắt giữ, tuyên án tại Sài Gòn, Đồng Nai, Bình Thuận, Ninh Thuận, Hà Nội…

Thách thức về tương lai nhân quyền Việt Nam

Tác động đến tình hình nhân quyền của mỗi quốc gia, ngoài yếu tố thể chế chính trị mang yếu tố quyết định, yếu tố tác động từ quốc tế cũng rất quan trọng. Trong đó, có vai trò của Hoa Kỳ và các quốc gia phương tây khác như Châu Âu và Úc Châu. Đặc biệt là Hoa Kỳ, một quốc gia hàng đầu trong việc cổ súy tôn trọng nhân quyền tại các quốc gia độc tài.

Tại Việt Nam cộng, tình hình nhân quyền đang đứng trước 2 thách thức nảy sinh:

– Ông Donald Trump trở thành Tổng Thống Hoa Kỳ trong 4 năm sắp tới;

– 2 lợi thế của Việt Nam về địa chính trị và tài nguyên đất hiếm;

a). Vốn là một doanh nhân làm chính trị, ông Donald Trump quan tâm đến đến vấn đề kinh tế của Hoa Kỳ qua chính sách America Frist hơn là vấn đề nhân quyền. Điều này có thể sẽ dẫn đến sự giảm thiểu chú ý về nhân quyền của thế giới, tương tự như nhiệm kỳ đầu vào các năm 2016-2020.

Thậm chí, ở nhiệm kỳ đầu của ông Trump, năm 2017 khi tiếp ông Nguyễn Xuân Phúc là Thủ Tướng Việt Nam tại Tòa Bạch Ốc, lần đầu tiên kể từ khi tái lập bang giao Việt – Mỹ năm 1995, ông Trump đã không còn đề cập đến vấn đề cải thiện nhân quyền nữa.

Ngay năm sau, năm 2018, tình hình nhân quyền Việt Nam trở xấu một cách rõ rệt. Người dân bị đàn áp bắt bớ gia tăng. Chế độ Cộng Sản ngang nhiên ban hành Luật An Ninh Mạng nhắm vào việc đàn áp người dân. Bốn năm sắp tới đây, bắt đầu từ năm 2025, khi ông Trump nhậm chức tổng thống lần thứ 2, chúng ta có cơ sở để e ngại rằng tình hình nhân quyền Việt Nam sẽ vẫn tiếp tục u ám.

b). 2 lợi thế của Việt Nam về địa chính trị và tài nguyên đất hiếm:

Vô tình, với chính sách “Hướng đông” của Hoa Kỳ quay sang Châu Á với sách lược bao vây Tàu cộng đã làm bộc lộ vị thế địa chính trị quan trọng của Việt Nam trong sách lược bao vây ấy. Điều này giúp chế độ Việt cộng“có giá trị” trong con mắt người Mỹ.

Đồng thời, việc phát hiện ra tài nguyên đất hiếm với trữ lượng dồi dào tại Việt Nam, vốn rất cần thiết trong việc sản xuất các thiết bị công nghệ cao mà các quốc gia như Hoa Kỳ đang mong muốn sở hữu. Lợi thế này, một lần nữa cũng lại giúp chế độ Việt cộng “có giá trị” trong con mắt người Mỹ.

Từ đó, vị thế chế độ Việt cộng được “nâng cấp” trong mối quan hệ bang giao với Hoa Kỳ và đồng minh phương Tây. Đổi lại, các yêu cầu về cải thiện nhân quyền cho Việt Nam trở thành thứ yếu. Lợi dụng điều đó, chế độ Việt cộng đã quả quyết hơn trong việc mạnh tay đàn áp dân chủ trong nước để củng cố và duy trì chế độ độc tài, và tình trạng vi phạm nhân quyền ngày một phổ biến tràn lan.

Theo đó, nhìn tổng quan trong tương lai ngắn hạn, tình hình nhân quyền của Việt Nam vẫn tiếp tục u ám như 50 năm qua, mặc cho thế giới văn minh đã được sống trong sự tôn trọng nhân quyền từ 76 năm qua, kể từ thời điểm khai sinh Tuyên ngôn Quốc Tế Nhân Quyền.

 

Đặng Đình Mạnh

 

Posted: 11/12/2024 #views: 1035
Add comment
:
Pages:  [-1]