VietOrg Media
Services    Employment    Services    Restaurants    Medical & health    Real Estate    Shops    Construction    Music    Lawyers    Travelling    Technology    Insurance    Hotel/motel/cottages    Transportation    Beauty    General service    FINANCE/BANKING    MEDIA
      
EINSTEIN VÀ ĐỨC PHẬT: SỰ GẶP GỠ GIỮA KHOA HỌC VÀ TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG

Cosmic Energy Activation | Buddhism quote, Buddhism, Einstein429,111 Budda Stock Photos, Pictures & Royalty-Free Images - iStock

Tác gìả: Mahendra De Silva

Chuyển ngữ: Ý Dân

Nguồn: https://www.colombotelegraph.com/index.php/einstein-and-buddha-convergence-between-science-and-eastern-philosophy/

“Phật giáo có những đặc điểm của những gì được mong đợi trong một tôn giáo vũ trụ cho tương lai: Nó vượt lên trên một Thượng đế cá nhân, tránh những giáo điều và thần học; nó bao gồm cả tự nhiên và tâm linh; và nó dựa trên một ý thức tôn giáo khao khát từ kinh nghiệm của tất cả mọi thứ, tự nhiên và tâm linh, như một sự thống nhất có ý nghĩa.

“Nếu có bất kỳ tôn giáo nào có thể đáp ứng được các nhu cầu khoa học hiện đại thì đó sẽ là Phật giáo. . (Albert Einstein)

Albert Einstein có thể là nhà khoa học vĩ đại nhất mà nhân loại từng có. Lý thuyết tương đối tổng quát của ông đã tạo ra một sự thay đổi mang tính cách mạng về cách mà các nhà khoa học quan niệm về thế giới. Ông phát hiện ra rằng thời gian và không gian luôn liên hệ đến người quan sát. Phương trình nổi tiếng E = MC2 (Enegery = Mass x Square of Light speed, Năng Lượng =  Khối Lượng vật thể x Bình Phương tốc độ ánh sáng)  của ông tiết lộ rằng vật chất và năng lượng là những dạng có thể hoán đổi cho nhau của cùng một khối lượng vật thể. Einstein là một thiên tài không chỉ giới hạn mối quan tâm của ông đối với khoa học. Những quan điểm của ông về Tôn giáo, triết học và chính trị cho thấy ông là một nhà tư tưởng vĩ đại, người đã cố gắng thu hẹp khoảng cách giữa khoa học và triết học hay tôn giáo. Đức Phật đã ban cho chúng ta một giáo pháp tuyệt vời dẫn đến việc khai mở tiềm năng tối đa của trí tuệ, cuối cùng sẽ dẫn đến sự hiểu biết đúng dắn về mọi thứ xảy ra xung quanh chúng ta và cuối cùng là giải thoát ra khỏi chu kỳ của Sansara (Chu kỳ của Sinh và Tử) (hay còn gọi là vòng luân hồi sinh tử). Sự khác biệt giữa Einstein và Đức Phật là Einstein rất quan tâm đến việc tìm kiếm câu trả lời cho hiện tượng thế giới bên ngoài, Đức Phật ngược lại đã sử dụng năng lực quan sát bên trong nội tâm của mình (pháp quán Tứ Niệm Xứ), tư duy và trí tuệ, dựa trên thực tế, để đạt được sự giác ngộ của mình. Cả Đức Phật và Einstein đều thực hiện tìm tòi nghiên cứu trên cơ sở khoa học. Đức Phật khuyên đệ tử của Ngài KHÔNG chấp nhận những gì Ngài dạy cho họ bằng giá trị bề mặt hoặc tin Ngài như một đức tin. Thay vào đó, ông khuyên họ nên tự mình chứng nghiệm giáo pháp của Ngài, và nếu chúng không chứng minh được sự thật, thì hãy bác bỏ chúng. Đức Phật đã đạt được những gì Ngài rong ruổi tìm kiếm. Einstein sau tất cả những khám phá của mình đã phải thừa nhận loài người không có đủ trí tuệ để hiểu hết những bí ẩn của tự nhiên. Mục đích của bài viết này là kiểm tra mức độ liên quan của một số tuyên bố của Einstein với giáo lý Phật giáo và cũng để trình bày quan điểm của Einstein về tôn giáo.

Einstein đề cao nhu cầu về đạo đức và lẽ phải của nhân loại. Nhưng ông tin rằng đạo đức không nên đến từ nỗi sợ hãi hay sự trừng phạt mong đợi từ ‘Chúa” hoặc bất kỳ thế lực nào khác. Ông nói - Hành vi đạo đức của một người thực sự phải dựa trên sự cảm thông, giáo dục, các mối quan hệ và nhu cầu xã hội; không cần cơ sở tôn giáo. Con người sẽ thực sự nghèo khổ nếu phải bị kìm hãm bởi nỗi sợ hãi bị trừng phạt và hy vọng được ban thưởng sau khi chết. Nếu mọi người tốt chỉ vì họ sợ bị trừng phạt và hy vọng được phần thưởng, thì chúng ta thực sự rất tiếc- (Albert Einstein, “Tôn giáo và Khoa học”, Tạp chí New York Times, ngày 9 tháng 11 năm 1930

Einstein phủ nhận sự tồn tại của Thượng Đế của ông nhưng ông không thể đưa ra câu trả lời đằng sau vẻ đẹp và cách thức trật tự vũ trụ được tạo nên có phương pháp. Điều này được ông thể hiện theo cách sau đây:

Tôi không có niềm tin vào Thượng Đế của riêng tôi và tôi chưa bao giờ phủ nhận điều này nhưng đã bày tỏ nó một cách rõ ràng. Nếu trong tôi có điều gì đó có thể được gọi là tôn giáo thì đó là sự ngưỡng mộ vô bờ bến đối với cấu trúc của thế giới mà đến nay khoa học của chúng ta có thể khám phá về nó. Tuy nhiên, tôi tin vào Thượng Đế của Spinoza, Đấng tự bộc lộ bản thân trong sự hài hòa có trật tự của những gì tồn tại, chứ không phải vào một Đấng quan tâm đến số phận và hành động của con người. (Albert Einstein, 1954)

Ai là Thượng Đế của Spinoza mà Einstein đang để cập tới ? Spinoza là một nhà triết học người Hòa Lan, người đã tuyên bố rằng Thượng Đế không là gì khác ngoài THIÊN NHIÊN. Theo Spinoza có khối lượng, năng lượng, nguyên tử, phân tử, sự sống, tư tưởng, con người, xã hội, thiên hà và thậm chí có thể là nhiều vũ trụ nhưng không có gì bên ngoài tự nhiên, bao gồm tầm nhìn tâm linh và các hiện tượng khác mà chúng ta chưa hiểu. Nếu chúng tồn tại, chúng là một phần của tự nhiên. Theo Phật giáo, có năm quy luật tự nhiên hoạt động trong vũ trụ khiến mọi thứ xảy ra, được gọi là Five Niyama. . Nghiệp chỉ là một trong những yếu tố này. Hoàn cảnh hiện tại là kết quả của vô số yếu tố luôn thay đổi. Không có nguyên nhân duy nhất nào (mà trải qua một tiến trình trùng trùng duyên khởi) khiến mọi thứ trở nên như vậy. 

Tuyên bố sau đây chỉ ra rõ ràng rằng mặc dù Einstein không công nhận  có Thượng Đế nhưng ông không phải là người vô thần.

Tôi đã nhiều lần nói rằng theo ý kiến của tôi, ý tưởng về một Thượng Đế  của tôi là một vị thần trẻ con, nhưng tôi không chia sẻ tinh thần thập tự chinh của một người vô thần chuyên nghiệp, người mà lòng nhiệt thành chủ yếu là do một hành động đau đớn để giải phóng khỏi những gông cùm của giáo lý tôn giáo đã nhận được trong thời niên thiếu. Tôi thích một thái độ khiêm tốn tương ứng với sự yếu kém trong hiểu biết trí tuệ của chúng ta về thiên nhiên và con người của chúng ta.

Đức Phật bác bỏ quan điểm truyền thống của người Hindu rằng thế giới là sự sáng tạo của Thượng Đế và cũng bác bỏ chủ nghĩa duy vật của những người vô thần. Ngài trở thành nhà triết học đầu tiên bác bỏ niềm tin ‘Linh hồn’ là một thực thể vĩnh viễn. Có vẻ như Einstein đã chấp nhận cả hai vị trí này. Trong phát biểu trên, Einstein đã khiêm tốn thừa nhận sự thiếu sót hoặc hạn chế trong kiến thức của mình để tìm ra câu trả lời cho những ‘bí ẩn’ của thế giới.

Chỉ cần xem xét tuyên bố sau đây của Einstein

“Con người là một phần của tổng thể, được chúng ta gọi là‘ Vũ trụ ’; một phần hạn chế về thời gian và không gian. Con người trải nghiệm bản thân, suy nghĩ và cảm xúc của mình như một thứ gì đó tách biệt khỏi phần còn lại - một loại ảo tưởng quang học về ý thức. Ảo tưởng này là một loại nhà tù đối với chúng ta, hạn chế chúng ta trong những ham muốn cá nhân và tình cảm của chúng ta đối với chỉ một vài người gần gủi chúng ta nhất. Nhiệm vụ của chúng ta phải là giải phóng bản thân khỏi nhà tù này bằng cách mở rộng vòng tròn từ bi của chúng ta để đón nhận tất cả các loài chúng sinh và toàn bộ thiên nhiên trong vẻ đẹp của nó. Không ai có thể đạt được điều này một cách trọn vẹn nhưng việc phấn đấu để đạt được thành tích đó, tự bản thân nó đã là một phần của sự giải phóng và là nền tảng cho sự bình an nội tâm”.

Các khái niệm vật lý là những sáng tạo tự do của tâm trí con người, và tuy nhiên, nó có vẻ như không được xác định duy nhất bởi thế giới bên ngoài. -Einstein

Thật ngạc nhiên khi biết rằng Đức Phật, 2500 năm trước, đã bày tỏ quan điểm gần như giống nhau bằng những từ ngữ khác nhau “Tất cả những khái niệm như nhân duyên, ngẫu duyên, nguyên tử, nguyên tố chính… đều là hình dung của trí tưởng tượng và biểu hiện của tâm trí. - -Đức Phật

Theo Đức Phật, Ngã không phải là một khái niệm duy lý. Thân chỉ là một tập hơp của ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành và thức) - Do đó ý thức là một ảo ảnh và cảm giác về ’thân’ chỉ là một hoạt động của não bộ. Mọi người sống vô thức như trong giấc mơ với trạng thái tin tưởng vào sự tồn tại của họ. Kết quả là họ trở nên gắn bó với tên gọi (danh) và hình thức (sắc), không nhận ra rằng chúng không có cơ sở nào hơn là các hoạt động của chính tâm trí. Đức Phật tuyên bố rằng do sự sai lầm trong quan điểm này, sự giải thoát của nhân loại sẽ bị ngăn ngại. Đức Phật gọi đó là sự vô minh, điều mà Einstein mô tả đó là sự ảo tưởng của ý thức. Giải pháp của Đức Phật để giải thoát chúng ta khỏi nhà tù là bằng cách phát triển và thanh lọc tâm trí, theo một con đường rõ ràng hướng tới nó (Bát Chánh Đạo (EightFold Paths) và Tứ Diệu Đế (Four Noble Truths)). Con đường của Đức Phật cũng liên quan đến việc mở rộng lòng từ bi bác ái đến tất cả mọi người. Theo Đức Phật, sự dính mắc (sắc dục) mang lại đau khổ và cũng sẽ ngăn cản người ta thoát khỏi nhà tù. Einstein nói rằng nhà tù này chỉ hạn chế tình cảm của chúng ta đối với những người thân yêu của chúng ta (Trở nên ích kỷ). Ông gợi ý rằng để thoát khỏi nhà tù, lòng từ bi bác ái nên bao trùm cho tất cả mọi loài chúng sinh. (Điều thú vị là Einstein đã không giới hạn lòng từ bi bác ái chỉ dành cho con người)

Có thể thấy nỗ lực của Einstein trong việc khám phá bí ẩn của thế giới từ tuyên bố này.

Trải nghiệm đẹp nhất và sâu sắc nhất là cảm giác về điều huyền bí. Nó là người gieo mầm cho tất cả khoa học chân chính. Người mà cảm xúc này là một người xa lạ, người không còn có thể ngạc nhiên và đứng lên vì sợ hãi, như đã chết. Để biết rằng những gì không thể xuyên thủng đối với chúng ta thực sự tồn tại, tự nó thể hiện như là trí tuệ cao nhất và vẻ đẹp rạng rỡ nhất mà những bộ phận mê muội của chúng ta chỉ có thể lĩnh hội ở dạng nguyên thủy của chúng - tri thức này, cảm giác này là trung tâm của tính tôn giáo thực sự. (Albert Einstein - Sự hợp nhất của Tinh thần và Khoa học)

Ở đây một lần nữa Einstein thừa nhận rằng tâm trí con người không thể hiểu hết những bí ẩn của thế giới. Nhưng Ông ngưỡng mộ vẻ đẹp và cách mà thiên nhiên vận hành nó một cách có phương pháp. Ông ấy thừa nhận câu trả lời đi kèm với sự khôn ngoan hơn và cũng gọi nó là tôn giáo thực sự. Cách tiếp cận của Đức Phật đối với những gì Einstein đang tìm kiếm có thể thấy rõ khi theo dõi cuộc đối thoại thú vị giữa Đức Phật và một trong những đệ tử của Ngài.

“Vị tôn giả được tôn kính nhất; Bạch Đức Thế Tôn, Ngài có thể vui lòng cho chúng con  biết kích thước của vũ trụ là bao nhiêu không? ”

Phật đáp:

"Biết được kích thước của vũ trụ có giúp ông chấm dứt đau khổ không?"

Vị Tôn Giả trả lời:

"Bạch Đức Thế Tôn, Dạ Không à"

Đức Phật hỏi:

“Vậy tại sao ông lại đặt những câu hỏi không quan trọng mà không đặt những câu hỏi về sự chấm dứt của khổ đau?

Phật giáo tránh những câu hỏi siêu hình mang tính suy đoán như là những xao lãng không liên quan đến sự tu tập giải thóat. Theo Phật giáo, không có gì xảy ra mà không có nguyên nhân; do đó vũ trụ là vô hạn không có thủy, không có chung. Tuy nhiên, nó chạy theo chu kỳ, vì vậy có thể có một sự khởi đầu và chấm dứt cho từng kỹ nguyên một.

Câu chuyện ngụ ngôn về mũi tên sau đây thường được sử dụng để minh họa lời dạy của Đức Phật rằng “những hành giả quan tâm đến nguồn gốc của vũ trụ và các chủ đề xa vời khác đang đánh mất quan điểm của việc tu tập trong Phật Giáo”.

Giả sử ai đó bị trúng một mũi tên tẩm độc và bạn bè, người thân của anh ta tìm thấy một bác sĩ có thể gỡ mũi tên ra. Nếu vị bác sĩ này nói, ‘Tôi sẽ không lấy mũi tên này ra cho đến khi tôi biết người đã bắn nó là linh mục, hoàng tử hay thương gia, tên của anh ta và gia đình của anh ta. Tôi sẽ không lấy nó ra cho đến khi tôi biết loại cung đã được sử dụng và đầu mũi tên là mũi thường hay đầu bằng sắt. ”Người đó sẽ chết trước khi tất cả những điều này được biết đến.

Nói tóm lại, hãy cố gắng tiếp tục giữ chánh niệm (Thời điểm hiện tại) trước khi bạn tra cứu tại sao hoặc bằng cách nào bạn đến đây.

Có lần Bertrand Russell giải thích lý do tại sao ông chấp nhận quan điểm của Phật giáo về nguồn gốc của thế giới. - ”Trong số những người sáng lập ra tất cả các tôn giáo trên thế giới này, tôi chỉ tôn kính một người duy nhất - Đức Phật. Lý do chính là Đức Phật đã không đưa ra những tuyên bố liên quan đến nguồn gốc của thế giới. Đức Phật là vị thầy duy nhất nhận ra bản chất thực sự của thế giới ”. (Bertrand Russell)

Có một điều thú vị là các nhà khoa học và tâm lý học hiện đại rất chú trọng nghiên cứu về não bộ và tâm trí. Các phương pháp thiền quán, rãi lòng từ, theo dõi hơi thở và chánh niệm của Phật Giáo được sử dụng rộng rãi trong y học và tâm lý học phương tây. Sẽ thật tuyệt nếu có thêm nhiều nhà khoa học như Einstein tiến tới để thu hẹp khoảng cách giữa khoa học và triết học phương đông trong tương lai.

Posted: 18/03/2021 #views: 2334
Add comment
:
Pages:  [-1]